Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

Văn hóa thương nghiệp lòng phố - ký hợp đồng và mục đích

các cửa hàng tạm thời, các quán ăn lòng đường, các gánh hàng rong đã phát triển thành một đối tượng thu hút được sự quan tâm của cuộc sống thành thị, nhưng nhà điều hành vẫn chưa làm rõ các định hướng trong xử sự với loại hình kinh doanh đặc biệt này. Trong bối cảnh chậm tiến độ, cần xem xét các gánh hàng rong, quán hè phố như các đối tượng của ko gian thị thành hàng ngày, hình thành và tồn tại dưới ba tác động: Sự đô thị hóa, nhu cầu của người dân và kiểm soát của Nhà nước để Tìm hiểu hiệu quả của các chính sách kiểm soát được ban hành, đồng thời Tìm hiểu các nét chính của bức tranh bối cảnh về tình trạng của thương mại lòng phố trong thành phố Việt Nam.


lòng phố - ko gian của hoạt động kinh tế “phi chính thức”

thương nghiệp hè phố - Hệ quả của thành thị hóa một đất nước nông nghiệp

có lẽ cuộc sống lòng đường của dân thành phố Việt Nam được xếp vào dòng sôi động đặc thù. “Văn hóa vỉa hè” được các chuyên gia phố hội học trong và ngoài nước chú ý nghiên cứu và sắm ra được phổ quát kết luận thú vị về thị thành Việt Nam từ các câu chuyện xảy ra trên hè phố. Dần dần lòng phố đã trở nên một tính trong khoảng mang hàm nghĩa “không chính quy”, ”không xác thực”, tiêu dùng để đặc tả tính chất của những danh từ cố nhiên trong phổ thông trường hợp.

“Thương mại vỉa hè” cũng vậy. rất nhiều hoạt động tậu bán, ăn uống của người dân được thực hành trên phạm vi lòng đường và không phải lúc nào luật pháp cũng cho phép. những người buôn bán trên ngừng thi côngĐây, đều tiêu dùng ko gian công cùng làm địa điểm kinh doanh của mình, điều này giúp người bán – quý khách thuận lợi thuận tiện hơn lúc giao dịch. Nhưng ngược lại, những không gian công cùng cũng phải chịu những ảnh hưởng không nhỏ, và Đó chính là vấn đề mà nhà quản lý cần quan tâm.

tiêu dùng ko gian công cộng để hoạt động thương nghiệp là đặc điểm chung của các đối tượng này, bên cạnh đó hình thức tiêu dùng lại khác nhau. có thể phân cái theo nhiều đội ngũ tùy theo từng góc nhìn: chính quy hay không chính quy, hàng quán nhất mực hay hàng rong (di động), buôn bán theo thời kì hay cả ngày…

mẫu hình thương mại lòng phố được tập trung nhắc trong trường hợp này là các hàng quán tự phát, những người bán hàng rong, và cả các người kinh doanh tự do ngoài tuyến đường thị trấn như : bán báo, đánh giầy, bán dạo… với thể tóm lại là những đối tượng hoạt động thương nghiệp lòng đường thuộc dòng hình kinh tế không chính quy.

định nghĩa kinh tế ko chính quy ở đây đồng nghĩa mang các hoạt động buôn bán ko đăng ký đơn vị để kiếm sống của người dân, chính do đó nó bao quát được thuộc tính của các hoạt động thương mại hè phố kể trên.

Sự hình thành hàng quán vỉa hè và các gánh hàng rong bắt nguồn trong khoảng những tập quán buôn bán tại những thành phố Việt Nam và mối quan hệ thương nghiệp giữa đô thị có những làng nông nghiệp phụ cận. Thêm vào chậm tiến độ, công đoạn thành thị hóa mạnh mẽ sau thời kỳ đổi mới đã khiến bùng phát thêm 1 lượng dân trôi nổi bổ sung vào hàng ngũ lao động nhà cung cấp tất cả trên phố xã.


Bán dạo trên lòng đường.

Trong những năm vừa mới đây, sự tập trung đầu cơ cho các trung tâm to để tạo nên các đầu tầu tăng trưởng như TP HCM, Hà Nội đã tạo ra 1 sự chênh lệch lớn về điều kiện kinh tế và phường hội giữa các đô thị lớn và nông thôn, khiến cho chiếc người dân dịch cư từ nông thôn về các tỉnh thành to càng ngày càng tăng. phần nhiều các người dân này đổ lên tỉnh thành vì lý do kinh tế, sau chậm triển khai là lý do như giáo dục, văn hóa.

bên cạnh đó, vì tốc độ phát triển các khu công nghiệp và tập huấn nghề của Việt Nam còn chưa tương thích mang đề xuất thực tại, một số lượng lớn của mẫu người di trú đổ vào tỉnh thành tham gia vào các dạng công tác 3K: “khó khăn - ko an toàn - ko sạch sẽ” hoặc đổ ra đường thị trấn tự kinh doanh hàng rong. Số lượng dân dịch cư này được phổ biến nghiên cứu đặt cho cái tên khác nhau như “dân di cư” “khách vãng lai” “dân trôi nổi” “dân không đăng ký” và rất khó hợp nhất về Báo cáo xác thực lúc dò la, thậm chí chỉ là thống nhất Thống kê ước tính cũng rất cạnh tranh do tính chất “không chính quy” của họ trong cả nghề nghiệp lẫn cư trú.

Cũng bởi các lý do trên nên các người dân dịch cư vào thị thành gặp phải các góc nhìn bị động của những nhà điều hành. chả hạn như đã từng có mẫu nhìn cho rằng dân nhập cư trôi nổi gây sức ép lên hạ tầng cơ sở vật chất thành thị vốn đã quá vận chuyển, hoặc dân dịch cư dễ tham gia vào những “tệ nạn đô thị” như trộm cướp, mại dâm, hoạt động trái luật pháp, tác động tới quy trình tỉnh thành, khiến cho mất mỹ quan và ảnh hưởng xấu đến môi trường đô thị.

khi mà còn thiếu những dự án nghiên cứu công nghệ nghiêm chỉnh kiểm chứng rõ những quan niệm bị động trên, những đóng góp tích cực của thành phần kinh tế ko chính quy đối mang thành thị lại luôn bị “bỏ quên”. bên cạnh đó, chế độ quản lý “hộ khẩu” của Việt Nam còn khiến những người lao động ngoại tỉnh giấc, vốn với mặt bằng trình độ tay nghề và thu nhập tốt, khó có dịp tiếp cận được với những việc làm và nhà cung cấp phường hội như y tế, giáo dục, bảo hiểm.

Ở quy mô phân bố lao động mỗi gia đình, có 1 quốc gia đang tăng trưởng nóng trong khoảng tiền đề nền nông nghiệp lạc hậu sở hữu lạm phát và bảo hiểm xã hội chưa đảm bảo thì việc một số thành viên gia đình (dù là nông thôn hay thành thị) kiếm sống bằng kinh doanh trên vỉa hè thành thị cũng là một cách để bảo đảm kinh tế hộ gia đình.

Ở góc nhìn rộng hơn, mỗi thành phố bắt yêu cầu là đầu tầu tăng trưởng của một vùng địa phương, vùng quốc gia, chính các người đang kiếm sống ở tỉnh thành là những mạch máu để hỗ trợ lớn mạnh kinh tế địa phương tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn phát triển thành ổn định hơn. Vì những lý do đó nên trong khi thời kỳ thành phố hóa còn diễn ra, khi sự chênh lệch điều kiện kinh tế - phố hội còn tiếp diễn thì vẫn còn động lực nuôi dưỡng chiếc người đổ ra đô thị kiếm sống bằng gần như mọi hình thức “chính quy” hay “không chính quy”.

Người dân thị thành - các thói quen tiêu dùng

Sẽ không cần yếu phải nhắc đến giá cả của hàng rong hay các hàng quán khác không nhất mực kinh doanh trong không gian công cùng, bởi chắc chắn là rất rẻ do đã bớt được những tầm giá mặt bằng vốn cao dẫn tới bất hợp lý ở các thị thành lớn Việt Nam. với đặc điểm các hàng rong, hàng quán hè phố chính yếu là đồ ăn, thực phẩm, đặc thù là thực phẩm ăn nhanh được bán có giá thấp là một lợi thế rất lớn để lôi kéo người dân thành phố, họ sẵn sàng bỏ qua cả những chuẩn mực vệ sinh an toàn thực phẩm để chấp nhận sử dụng. Thật vậy, giá cả là yếu tố hàng đầu, giúp hàng rong còn đó, nhưng chẳng phải hồ hết.


lòng đường - nơi buôn bán, giao lưu và gặp gỡ.

Cần nói và làm cho rõ những lề thói tiêu dùng của người dân thành phố, các thói quen đã đi vào truyền thống và trở nên 1 bản sắc của người dân đô thị Việt Nam. Chính các lề thói Đó đã khiến đông đảo người đứng về phía hàng rong mỗi khi với những sức ép của chính sách lên người hoạt động thương nghiệp vỉa hè. những trở ngại truyền thống ngừng thi côngĐây nó ăn sâu vào văn hóa của người thị thành và khó với thể liệt kê hết phần lớn và rõ ràng. Xin điểm một đôi hành vi với thuộc tính thí dụ cho thói quen dùng của người dân thị thành.

- Khác mang người nông dân và những người phương Tây, số đông người dân đô thị sống lâu tại tỉnh thành có lề thói ăn sáng tại các hàng quán. Chính thói quen này đã nuôi dưỡng hàng ăn lòng đường và tạo ra 1 thời gian biểu đặc sắc cho ko gian tỉnh thành mỗi sáng. Bạn hãy mường tượng, không gian trục đường phố biến đổi mạnh mẽ trong khoảng thời kì trong khoảng 5h - 9h sáng qua ba - bốn hoạt cảnh khác nhau, trong khoảng 5 - 6h là khi người dân tập thể dục, chạy bộ thể thao, sau Đó từ 6 - 8h là giờ bày bán và diễu hành của hàng rong và quán ăn, tới 9h là khoảng thời gian đội thứ tự thị trấn đi tuần tra, hàng quán quét dọn lại ngăn nắp hơn, nhưng vẫn mang những “hoạt cảnh” lúc người dân vừa bê bát bún vừa chạy dẹp vào một góc, tránh thứ tự và công an.

ko chỉ ăn sáng, thói quen ăn quà, ngồi quán lúc có thời gian rảnh của người dân trong ngày cũng tạo nên các cửa hàng bán đủ thể loại quà bánh vào bất kỳ thời gian nào trong ngày. những đồ ăn chậm triển khai cũng khó mang thể trở thành những cửa hàng to, rộng và sang trọng, những loại tên như “chè hẻm”, xôi bà nọ, cụ kia hay cả những quán cà phê “một chữ” (Nhân, Nhĩ, Dĩ, Giảng ở Hà nội) cũng đủ đặc tả quy mô nhỏ bé và tính độc đáo của các hàng quán tương tự.

- thói quen đi chợ hay tậu bán thực phẩm tươi sống trong ngày cũng là lý do cho hàng rong lớn mạnh tiện dụng, vì ngày nào những bà những chị cũng sở hữu nhu cầu đi chợ, nên hàng rong chỉ cần “vào từng nhà, rà từng ngõ, gõ từng đối tượng” là sở hữu thể tiêu thụ được gánh thực phẩm nhỏ bé của mình để quay vòng vốn chóng vánh. các bà những cô cũng thích chỉ cần ngồi tận nhà, đợi người đi qua mà mua thêm các thứ cần thiết có giá thấp hơn. từ 10 năm gần đây, các siêu thị đã làm tất cả để đổi thay thói quen này của người dân, nhưng truyền thống tìm bán “mặc cả - thỏa thuận” đã kéo dài cả ngàn năm nay vẫn chưa thể thay đổi.

- thói quen tiêu dùng những dụng cụ liên lạc tư nhân để tiếp cận như xe máy cũng góp phần ko nhỏ trong việc duy trì những hàng rong, hàng quán. Trong thành phố Việt Nam con người sở hữu thể gắn chặt sở hữu yên xe máy đi mọi nơi, mọi ngóc ngách. Trên trang web du hý của hãng thông tấn CNN mới đây với đăng vận chuyển 1 phóng sự qua ảnh phóng viên Bruce Foreman biểu hiện sự ngạc nhiên của những vị khách nước ngoài khi tới Việt Nam. Chỉ cần ngồi trên xe máy, người ta mang thể sắm bán đủ thứ từ quà bánh vặt đến chợ búa hàng ngày, thậm chí xe máy có thể trở thành ghế đá công viên cho những đôi trẻ vừa tâm tình vừa ăn kem, ăn quà.

ví như yếu tố Địa điểm “Location” là điều kiện tiên quyết hàng đầu trong nguyên tắc kinh doanh của phương Tây thì ở tỉnh thành Việt Nam, các bạn và hàng rong tự tìm tới nhau do đều với các nguyên tố động và cởi mở trong tiếp cận. Và xác suất gặp nhau của họ là không nhỏ lúc số lượng của 2 bên cung và cầu đều lớn.

điều hành tỉnh thành - Đạt mục tiêu bằng các sự thỏa thuận

khái niệm ký hợp đồng trước đây đã được phổ quát người nói tới, đặc trưng là David Koh trong 1 cuốn sách nghiên cứu về phố ở Hà Nội đã kết luận ”không gian đường xã do các thị trấn điều hành là không gian dàn xếp” (Mediation Space). Theo Đó, việc điều hành không chỉ đơn giản là do chính sách ở các đơn vị quản lý trên ban ra, mà còn sở hữu các tác động nhất mực từ chính dân cư địa phương vào chính sách.

các ảnh hưởng ngừng thi côngĐây can dự đến văn hóa, đạo đức, chả hạn như thường nỡ dẹp quán của người quá nghèo hay họ hàng. Hay, can dự tới truyền thống “phép vua thua lệ làng”. Và can dự cả tới những vấn đề kinh tế sáng tỏ như “phạt cho tồn tại” hay không minh bạch như đút lót. chậm tiến độ là những khó khăn kìm hãm tính hiệu quả của những cán bộ thứ tự lúc dẹp bỏ hàng rong hay hàng quán xâm lấn.

Ở 1 cấp cao hơn, các nhà quản lý đô thị cũng phải thừa nhận các sự còn đó của cung và cầu như hai phần trên đã chứng minh. Bài học đổi mới phương pháp đây 20 năm giúp nhà nước ý thức rõ hơn vai trò của kinh tế dân sinh như một cứu cánh đối sở hữu các phòng ban dân cư nhà nước chưa đủ sức bao trọn. cho nên, mặc dầu với đầy đủ còn đó tiêu cực trong những hoạt động của thương nghiệp lòng đường (như an toàn thực phẩm hay thứ tự công cộng) nhưng các cơ quan điều hành cấp cao hơn cũng chỉ có thể đề ra các quy phạm điều chỉnh hoạt động tiêu cực chậm tiến độ mà ko mang các hình phạt chế tài cụ thể.

tạp chí mang thể trách tính thiếu hiệu quả và thiếu chặt chẽ ngay từ khâu ban hành văn bản của cơ quan điều hành, ngoài ra các văn bản như thế cũng có tác dụng như 1 tuyên bố thỏa thuận của quản lý đô thị đối với người buôn bán và người sử dụng hiểu rõ, đâu là đích hướng đến trong công đoạn tiếp theo trong việc điều hành hàng quán lòng phố, để rồi 1 phần những chủ kinh doanh đổi thay do cảm thấy sức ép sắp đến, một phần người dùng bị thuyết phục tẩy chay những sản phẩm giả và khi những chế tài thực sự hiệu quả có mặt trên thị trường và áp dụng, chừng độ ảnh hưởng tới thương mại lòng đường sẽ bớt tác động mạnh tới kinh tế dân sinh hơn bây giờ.

tương tự những Phân tích phía trên đã phần nào phác họa được bức tranh bối cảnh của thương nghiệp vỉa hè trong thành thị Việt Nam. Sự tồn tại với tính quy luật, đáp ứng nhu cầu thị phần của thương nghiệp lòng phố là chẳng thể tránh khỏi, dù rằng ẩn chứa trong nó quá nhiều vấn đề tỉnh thành khiến cho đau đầu các nhà điều hành. Việc khó kiểm soát hàng rong và nền kinh tế lòng đường khởi hành trong khoảng những nguồn gốc nội tại của nền kinh tế, hệ thống quản lý thành phố và chính sách phát triển quốc gia đại quát.

những chính sách điều hành và giữ quy trình thị thành của các cấp cơ sở vật chất tác động mạnh đến thương mại lòng đường, mặc dù mang các hiệu quả trong vấn đề giữ mỹ quan, trật tự đô thị đơn lẻ ngừng thi côngĐây, nhưng đằng sau việc cấm đoán chậm tiến độ cũng có các bất cập trong tăng trưởng kinh tế khi xét tới tổng quan cả vùng lãnh thổ.

Trường hợp thành thị Đà Nẵng có thể coi là điển hình trong điều hành “siết chặt” đối sở hữu thương mại vỉa hè và các chính sách nhập cư để giữ trật tự đô thị. Liệu sở hữu hay không sự can hệ giữa các chính sách ngừng thi côngĐây có tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao của Đà Nẵng, cũng như vai trò còn hạn chế trong việc dẫn dắt tăng trưởng toàn vùng? Rất cần những Đánh giá tiếp theo để đưa ra những nghiên cứu chuyên sâu hơn về chính sách điều hành kinh tế và ứng xử đối có thương nghiệp vỉa hè phát xuất trong khoảng đa dạng góc độ.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét